Ông Tăng Minh Lộc
- nguyên Chánh Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương chia sẻ với phóng
viên Báo Nông nghiệp Việt Nam.
Chúng ta học hình mẫu ở đâu để làm nông thôn mới (NTM)
thưa ông?
Thế hệ chúng tôi đã chứng kiến 3 cuộc làm NTM rồi:
- Thời kỳ 2000 - 2003, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Huy Ngọ đã
đưa ra chương trình phát triển nông thôn, lấy xã là đơn vị tổ chức thực hiện.
Cả nước đã chọn 200 xã làm điểm. Bấy giờ mới chỉ nặng về phát triển hạ tầng
(điện, đường, trường, trạm) thôi, cơ chế và nguồn lực tài chính không rõ, không
có dòng ngân sách cho chương trình. Người dân đều nghĩ sẽ có nhà nước lo cả nên
các xã kê khai vốn lên nhiều quá… Vì vậy chỉ sau gần 3 năm triển khai đã không
thành công như mong muốn.
- Cuối năm 2007, Bộ NN-PTNT lại đề xuất Chính phủ cho thí
điểm chương trình phát triển nông thôn dựa vào cấp thôn (bản, ấp), cũng đã chọn
17 thôn, bản, ấp đại diện cho 7 vùng sinh thái để thử nghiệm. Được hơn 2 năm,
chúng tôi thuê một nhóm các chuyên gia đánh giá độc lập… Kết quả là cũng không
thành công.
Ông Cao Đức Phát - Bộ trưởng Bộ NN-PTNT lúc đó có hỏi tôi:
Tại sao không thành công? Chúng tôi lý giải, có nhiều nguyên nhân nhưng điểm
mấu chốt nhất là thôn không phải là đơn vị hành chính mà chỉ là cánh tay nối
dài của xã, nó không đủ quyền lực, tư cách pháp lý để huy động sử dụng các
nguồn lực, nhất là các nguồn lực công. Mặt khác ở thôn, ai hăng hái thì được
bầu chứ không được đào tạo gì cả, nên thiếu tầm, thiếu kiến thức để thực hiện
một việc lớn bao trùm các lĩnh vực như phát triển nông thôn.
- Sau khi có Nghị quyết 26 chúng tôi được giao nhiệm vụ tham
mưu xây dựng kế hoạch thực hiện. Nhóm công tác đã đề xuất: Nếu có một chương
trình phát triển nông thôn toàn diện (NTM) thì sẽ giải quyết được nhiều vấn đề
của tam nông. Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng - Trưởng ban chỉ đạo
Trung ương lúc đó đã nghe rất kỹ, đồng ý và giao cho nghiên cứu xây dựng chương
trình NTM.
Ban chỉ đạo Trung ương đã cử nhóm công tác đi Hàn Quốc, Nhật
Bản, Trung Quốc, Bungari, Malaysia nghiên cứu học tập. Mỗi nơi cũng có những
kinh nghiệm tốt được vận dụng vào chương trình NTM như: Hàn Quốc là kinh nghiệm
về coi người dân làm chủ thể, về đào tạo cán bộ cơ sở…, Nhật Bản là phát triển
nông thôn sinh thái và bảo tồn bản sắc văn hóa…, Trung Quốc là hạ tầng…,
Malaysia là phát triển nông thôn ở miền núi… Tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là
bài học kinh nghiệm phát triển nông thôn trong quá khứ ở cả thành công và thất
bại tại nước ta.

Chương trình NTM của chúng ta đặt vấn đề phải phát triển
nông thôn toàn diện hướng tới phát triển sản xuất - dịch vụ nâng cao đời sống
tại chỗ cho nông dân và cư dân nông thôn. Nông thôn phát triển theo quy hoạch
và kế hoạch, có hạ tầng tương đối đồng bộ và đảm bảo phát triển lâu dài. Môi
trường nông thôn xanh, sạch, đẹp. Dân trí và trình độ cán bộ cơ sở được nâng
cao. Các bản sắc văn hóa tốt đẹp được bảo tồn. Tiếp tục chọn xã làm đơn vị tổ
chức thực hiện để phát huy tính cộng đồng và có đội ngũ cán bộ đủ sức thực
hiện.
Đặc biệt đã xác định lấy người dân làm chủ thể - tức là mọi
chính sách về phát triển nông nghiệp và nông thôn phải hướng tới mang lại lợi
ích cho họ. Đồng thời phải để họ tự đứng lên, đóng góp, làm chủ quá trình xây
dựng NTM trên quê hương của mình. Đó là điểm khác biệt, khâu đột phá của chương
trình NTM so với trước và đó là gốc của các thành công sau này. Thực tế có thể
thấy: Nếu người dân không chịu đứng lên thì mọi sự hỗ trợ của Nhà nước cũng
thành vô nghĩa.
Đã gọi là NTM rồi sao lại có nâng cao, kiểu mẫu? Chúng ta
học ở đâu hay tự nghĩ ra thưa ông?
Các danh hiệu này đều do chúng ta nghĩ ra cả, mà theo tôi đó
là cách làm sáng tạo, phù hợp với đặc thù nông thôn ta. Muốn rõ thêm có lẽ phải
bắt đầu bằng tiêu chí, NTM đạt chuẩn, nghĩa là phải đạt 19 tiêu chí. Lúc đầu
chúng tôi chỉ đề xuất 10 tiêu chí thôi và cũng đã tổ chức một số hội thảo. Tôi
nhớ có một cuộc mời 18 chuyên gia đầu ngành NN-PTNT và một số chuyên gia quốc
tế. Tại đó có khoảng 50% là không tán thành. Họ bảo: Trên thế giới chưa thấy
nước nào phát triển nông thôn toàn diện mà thành công, Đề án NTM (dự thảo) liệu
có tham vọng quá không? Số khác nói: Thế giới người ta phát triển nông thôn chỉ
đề ra mục tiêu chứ không có tiêu chí. Nếu các anh áp bộ tiêu chí thì khác gì
đưa tất cả vào một khuôn.
Nhưng lại có 50% đồng tình. Họ bảo ở nước ta không có tiêu
chí cụ thể, tiêu chí không lượng hóa được thì lấy gì làm cơ sở cho người dân
biết phải làm gì? Lấy gì làm thước đo đánh giá kết quả khách quan… Rất may, khi
đưa ra dự thảo với các Bộ, ngành, các địa phương thì nhận được sự đồng tình
cao. Bộ nào cũng muốn có tiêu chí thể hiện công việc của mình và cuối cùng
Chính phủ đã ban hành 19 tiêu chí.
Việc đặt ra mức độ phải đạt của từng tiêu chí là căn cứ vào
yêu cầu phát triển nông thôn của ta có so sánh với một số nước phát triển trong
khu vực và tính khả thi của ta. Mức đạt chuẩn là khá hơn trước nhưng so với
nông thôn văn minh của các nước phát triển thì chỉ coi như là vừa “thoát khỏi
mặt đất” thôi.
Theo quy luật phát triển không đều thì sẽ có nhiều xã đạt
chuẩn trong khi nhiều xã phải một số năm sau mới đạt. Vậy phải có các tiêu
chuẩn mới để các xã đã đạt chuẩn tiếp tục vươn xa. Chính vì vậy mà sau năm 2016
chúng ta đã đặt ra danh hiệu “NTM nâng cao”, “NTM kiểu mẫu” và các danh hiệu
này đến nay vẫn gây tranh cãi. Ý kiến phản biện rất có lý khi cho rằng:
- Cùng một lúc có nhiều danh hiệu quá mà tiêu chuẩn danh
hiệu “nâng cao”, “kiểu mẫu” không khác nhiều với “đạt chuẩn” làm cho cán bộ cơ
sở và nhân dân thấy rối, khó nhận diện.
- Giả sử có đạt “NTM kiểu mẫu” thì cũng còn xa mới đến một
nông thôn văn minh như các nước phát triển. Nhưng đã gọi là “kiểu mẫu” thì
người dân cho là “đỉnh” rồi, không cần phấn đấu nữa. Nếu tiến lên sau “đỉnh”
thì gọi bằng danh hiệu gì?
Một số nơi có biểu hiện bệnh thành tích trong xây dựng
NTM. Ông bình luận sao về điều này?
Trong xây dựng NTM thì biểu hiện rõ nhất là “nạn” châm chước
hoặc cho nợ tiêu chí khi xét chuẩn và nợ đọng trong xây dựng hạ tầng. Nợ
xây dựng hạ tầng gần đây giảm rõ do chúng ta đã bổ sung điều kiện nếu còn là
không xét đạt chuẩn. Tuy nhiên, nợ tiêu chí thì ngày càng tăng và rất chậm trả.
Cuối giai đoạn 1 (2010 - 2015) nhiều tỉnh, TP đã có biểu
hiện này rồi vì lúc đó sắp chuẩn bị đại hội đảng các cấp. Tôi nhớ vào giữa
2015, Đồng Nai (lá cờ đầu NTM cả nước lúc đó) có đề nghị xét công nhận nốt 2
huyện Nhơn Trạch và Long Thành đạt chuẩn huyện NTM. Sau khi kiểm tra kỹ, chúng
tôi thấy không thể công nhận được và đã mời lãnh đạo tỉnh phụ trách khối cùng
lãnh đạo chủ chốt 2 huyện và các xã đến họp phân tích rõ những mặt chưa đạt để
họ sửa. Ví dụ: Môi trường đang là vấn đề “cộm” thì phải di chuyển triệt để các
cơ sở chăn nuôi tập trung ra khỏi khu dân cư, phải hoàn thành và đưa vào sử
dụng các điểm xử lý rác tập trung đủ chuẩn… Những việc đó tối thiểu cũng phải 8
tháng đến 1 năm mới xong, sau đó, tỉnh hãy đề xuất lại việc công nhận. Vậy mà
mới chỉ hơn 2 tháng sau, khi tôi đã về hưu, 2 huyện đó đã được công nhận “đạt
chuẩn NTM”.
Ở nhiều tỉnh bây giờ đều có chuyện “huyện chuẩn NTM” mà có
vài chục phần trăm số thôn bản ấp không có khu vui chơi hoặc không có nhà văn
hóa đạt chuẩn. “Xã chuẩn NTM” mà vừa đến đầu làng đã thấy mùi hôi thối, rác
trắng đường, trắng kênh, chợ họp ngay trên huyện lộ, tệ nạn cờ bạc xảy ra
thường xuyên. Tình trạng nói chung là khi xét duyệt thì huyện, tỉnh châm chước
cho xã (7 bỏ làm 10), Trung ương châm chước cho huyện.
Cái này nó xuất phát chính từ trình độ và cái tâm của cán bộ
đi thẩm định, xét duyệt: Người thẩm định không hiểu bản chất, mục tiêu của NTM,
không thuộc hết nội dung và yêu cầu của các tiêu chí thì khó mà soi đúng được.
Hoặc là thiếu trách nhiệm, chỉ hời hợt “cưỡi ngựa xem hoa”, nhận phong bì rồi
thì cái gì cũng OK hết. Nhưng nặng nhất vẫn là tâm lý lập thành tích (giả) của
lãnh đạo nhiều địa phương để mong có được chiếc ghế cao hơn của địa vị. Với
động cơ đó họ có nhiều ngón lắm, ngay cả việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư
đánh giá sự hài lòng về kết quả NTM, tưởng là dễ khách quan, nhưng họ cũng có
nhiều cách để biến nó thành hình thức, không có chất gì.
Vì thế những năm tới Ban chỉ đạo Trung ương nên tuyên chiến
với vấn nạn này, nếu không nó gây nhiều hệ lụy xấu lắm và quan trọng là nó đang
làm giảm thấp chất lượng cuộc sống của người dân so với mục tiêu NTM đề ra.
Sau 13 năm làm NTM, đến bây giờ còn bất cập nào lớn thưa
ông?
Trước hết là vấn nạn môi trường. Từ khi làm NTM đến nay đã
có nhiều thôn, xã sạch hơn nhưng tình hình chung là số đông đang có xu hướng ô
nhiễm nặng hơn bởi tỷ lệ rác thải, nước thải sinh hoạt (nhất là ở những làng
nghề có chế biến lương thực thực phẩm) được xử lý đạt tiêu chuẩn an toàn là rất
thấp. Nó đang hàng ngày, hàng giờ hủy hoại sức khỏe của người dân.
Thứ 2 là văn hóa - cái hồn của NTM. Mong muốn của chúng ta
làm NTM là phải tạo ra đời sống tinh thần sôi động hơn, trước hết là thể thao,
văn nghệ, cảnh quan xóm làng xanh, sạch, đẹp để người nông thôn yêu và tự hào
về quê mình. Thanh niên bớt bỏ làng ra phố. Chúng ta cũng chủ đích tạo ra các
thiết chế nhà văn hóa, khu vui chơi cho các thôn bản. Nhưng quá nửa số đó đang
ở tình trạng “sân mọc cỏ, ngõ mọc rêu” hoặc nhà văn hóa chỉ để họp.
Thứ 3 là về kinh tế thì kinh tế nông thôn vẫn phát triển
chậm và không bền vững:
- Doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này vẫn mỏng lắm, mãi vẫn
chỉ lẩn quẩn 2 - 3% số doanh nghiệp cả nước với số vốn đầu tư còn khiêm tốn
hơn. Nguyên do là chúng ta chưa có chính sách đủ mạnh, chính sách chưa nhằm
trúng cái mà doanh nghiệp cần nhất nên khó thu hút. Chừng nào chưa có nhiều
doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản thì chừng đó vẫn
khó giải quyết lao động việc làm ở nông thôn và khó mà có nền nông nghiệp hiện
đại.
- HTX thì vẫn đì đẹt. Tiếng là có hơn 10.000 HTX nông nghiệp
nhưng hiện chỉ có khoảng 7% là “đích thực HTX” có hiệu quả tốt về kinh tế và xã
hội. Đang còn rất nhiều HTX nông nghiệp (nhất là khu vực Bắc bộ và Bắc Trung
bộ) tồn tại hình thức. Dù hầu hết đã chuyển đổi theo luật mới nhưng 2 vấn đề
cốt lõi nhất là giám đốc, xã viên thì lại ít có đổi mới. Giám đốc HTX vẫn do
Đảng ủy phân công chứ không phải do xã viên chọn bầu, phần đông trong số đó
không có kiến thức quản lý và kinh doanh, không hiểu thị trường. Còn xã viên
thì dường như cứ ai sinh ra ở nông thôn, có làm ruộng thì mặc nhiên được coi là
xã viên HTX mặc dù không có đơn xin gia nhập, không góp cổ phần, không lao động
theo phân công của HTX. Chúng ta vẫn chưa phân định rõ xã viên HTX với người
mua dịch vụ của HTX. HTX đã nghèo (năm 2020 có 20% số HTX có lãi dưới 100 triệu
đồng/năm) vậy mà thường được giao chi lo bao nhiêu việc của xã thì còn gì để
tái sản xuất mở rộng và phúc lợi xã viên.
- Chúng ta đã có chương trình OCOP với hy vọng sẽ tạo ra
“nhóm sản phẩm từ dân” làm giàu cho nông dân, tạo động lực mới cho nông thôn.
Nhưng sau hơn 3 năm thực hiện dường như đang bị trượt khỏi đường ray. Bởi thay
vì phải khai thác nguyên liệu sản xuất với sử dụng lao động bản địa là chính,
nâng cấp lên để tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao, tăng thu cho
người sản xuất và lan tỏa bản sắc văn hóa cho các vùng quê thì nó đang bị trượt
sang hướng sản phẩm của doanh nghiệp phi bản địa. Việc công nhận sản phẩm OCOP
đang bị coi là “dễ dãi”.
Thứ 4 là đầu tư công đang chưa thực sự ưu tiên cho khu vực
nông thôn để làm chuyển biến mạnh mẽ những vấn đề nổi cộm đã nêu nhiều trong
các báo cáo tổng kết 2 giai đoạn như môi trường, văn hóa, đào tạo nghề, khởi
nghiệp…
Sự thật là cả 2 giai đoạn 2010 - 2015 và 2016 - 2020 đầu tư
công cho khu vực này chưa gấp 2 lần 5 năm trước như Nghị quyết đã đề ra, mặc dù
mức đó vẫn khiêm tốn so với vị thế của nông nghiệp - nông thôn trong kinh tế -
xã hội nước ta.
Thứ 5 là đất đai vẫn là vấn đề trở ngại lớn cho phát triển
nông nghiệp - nông thôn, đang gây hệ lụy xấu ở nhiều mặt. Lãng phí trong sử
dụng đất đai đang là lãng phí rất lớn. 75% các vụ khiếu kiện ở nông thôn 10 năm
qua là liên quan đến đất đai.
Ông có thể cho biết rõ hơn về lãng phí trong sử dụng đất
đai?
Trước 2005, chuyện nông dân bỏ ruộng là hiếm. Mấy năm trước
Cục Kinh tế hợp tác có khảo sát một số tỉnh khu vực Bắc bộ và Bắc Trung bộ cho
thấy khoảng 1,6% ruộng canh tác bị bỏ hoang, giờ chắc còn tăng hơn. Nó có nhiều
nguyên nhân nhưng chủ yếu là thiếu nhân lực và canh tác không có lãi.
Nhiều tỉnh thì đang có tình trạng đất dự án đô thị phát
triển tràn lan, nhưng người đến ở thì ít mà mua đầu cơ thì nhiều. Chỉ lấy ví dụ
như tỉnh Hải Dương, 7 năm lại đây có gần trăm dự án đất đô thị lớn nhỏ từ tỉnh
đến huyện với diện tích khoảng gần 1.000ha. Hầu hết các dự án đã được phép bán
cho người dùng. Tuy nhiên hầu hết các dự án ở các huyện tỷ lệ làm nhà ở chỉ
khoảng 15 - 20%. Có dự án đã bán hết mà sau hơn 2 năm chưa có ai làm nhà. Chúng
tôi có hỏi một anh có trách nhiệm ở tỉnh thì anh bảo: “Dân họ mua hết rồi đấy
anh, có nhiều chỗ còn sang tay 2 - 3 lần ấy chứ”.
Nhưng nếu chỉ tính với trình độ canh tác của nông dân Hải
Dương có thể thu bình quân 300 triệu đồng/ha/năm, nay sẽ mất đi do không còn
sản xuất nông nghiệp. Nhà đầu tư bất động sản sẽ phải chi gần 3 tỷ đồng/ha đền
bù cho giải phóng mặt bằng, khoảng 4,5 tỷ/ha cho đầu tư hạ tầng cơ bản và các
khoản chi khác khoảng 4 tỷ/ha. Nhà đầu tư thứ cấp sẽ bỏ tiền ra mua trung bình
20 triệu đồng/m2 (chỉ tính cho tỷ lệ xây dựng 50%)…
Tính ra là con số khổng lồ, hàng chục ngàn tỷ đồng vốn xã
hội đắp chiếu nằm đó, chưa kể phải lo công ăn việc làm cho hàng ngàn hộ mất
ruộng. Đáng tiếc là lãnh đạo nhiều địa phương chỉ thích trong nhiệm kỳ tại vị
có thật nhiều dự án bất động sản trên địa bàn của mình, bất cần cung cầu thực
ra sao.
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan từng nói: NTM đang có
cốt nhưng thiếu hồn. Ông nghĩ sao về điều này?
Nói như Bộ trưởng cũng không sai. Nhưng bàn về “hồn NTM” thì
rộng lắm và nó cũng có cấp độ khác nhau theo sự phát triển của xã hội văn minh.
Ở đây tôi chỉ nói đến cái mà NTM giai đoạn này hướng đến: Đó là nông thôn có
dân trí, trình độ cán bộ cơ sở được nâng lên. Người dân đứng lên làm chủ được
chủ động bàn bạc quyết định cái gì cần cho làng mình, xã mình. Các hoạt động
văn nghệ, thể thao sôi nổi, lôi kéo các lứa tuổi, nhất là thanh thiếu niên tham
gia. Cảnh quan xóm làng xanh, sạch, đẹp. Người dân sống có trách nhiệm với cộng
đồng, sẵn sàng giúp đỡ nhau theo truyền thống “lá lành đùm lá rách”. Các tệ nạn
xã hội như mê tín, đánh nhau thành thương, rượu chè, cờ bạc, ma túy dường như
không có, để người dân sống an lành và không lo hư hỏng thế hệ con cháu. Người
dân yêu làng quê, tự hào với quê và nhiệt tình đóng góp xây dựng quê hương.
Thanh niên không phải bỏ làng ra phố - sẽ là nguồn lực quan trọng xây dựng quê
hương… Phần “hồn” nói nôm na là như thế.

Hơn 10 năm xây dựng NTM, điều rõ nhất là đã làm tốt phần
“cốt”, đó là hạ tầng được cải thiện rõ rệt làm thay đổi bộ mặt làng quê. Sản
xuất đã phát triển khá theo hướng hàng hóa góp phần cải thiện đời sống người
dân nông thôn. Và về phần “hồn” thì cũng có nhiều xã tiến bộ (theo hướng như đã
nói ở trên). Tuy nhiên nhìn chung thì nhiều mặt còn ì ạch:
- Trình độ cán bộ cơ sở có được nâng lên về bằng cấp nhưng
số đông lại quan liêu, lười và thực dụng hơn. Thực hiện dân chủ với dân còn
nặng về hình thức, ít thực chất.
- Tỷ lệ người thường xuyên tham gia hoạt động văn nghệ thể
thao chỉ ở mức 5 - 7% dân số. Nhu cầu này của người dân không nhỏ, thôn bản nào
cũng có nhà văn hóa (dù đủ chuẩn hoặc chưa) nhưng phong trào vẫn “lặng” do
thiếu người tổ chức, hướng dẫn chuyên môn, cũng không có nguồn kinh phí nuôi
dưỡng. Không có chỗ chơi thì người ta sẽ tìm đến bài bạc, bói toán, thanh niên
dễ dính đến tệ nạn hơn.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường đang có xu hướng gia tăng do
rác thải sinh hoạt và chăn nuôi chưa được đầu tư xử lý đúng cách, nhiều nơi xả
thẳng ra kênh tưới, không chỉ gây hại cho sức khỏe mà làm xấu cảnh quan, cũng
không có nông sản sạch để dùng. Môi trường đang là vấn đề bức xúc làm cho ngay
người ở quê cũng ngán ngẩm.
- Vẫn có tình trạng phổ biến là thanh niên muốn thoát ly
khỏi nông nghiệp, thoát ly khỏi nông thôn ra phố. Nhiều “làng rỗng” không còn
nguồn nhân lực khỏe cho phát triển.
Sơ bộ như thế cũng thấy phần “hồn” mà NTM hướng tới còn
nhiều bất cập. Thực tế đã có nhiều mô hình xã thành công trong xử lý vấn đề này
nhưng vẫn lẻ loi, chưa được các cơ quan chức năng tổng hợp, nghiên cứu và đưa
ra chính sách phù hợp để nhân rộng…
Xin cảm ơn ông!
Đình Trưng sưu tầm
( Nguồn Báo Nông nghiệp Việt Nam)